Di tích lịch sử, văn hóa, lễ hội Thanh_Liệt

Đình thờ danh nhân Chu Văn An tại xã Thanh Liệt bên bờ sông Tô Lịch
  • Một đoạn đường mang tên Thanh LiệtMột đoạn sông Tô Lịch chảy qua xã Thanh LiệtLàng Thanh Liệt có chùa Quang Ân ở thôn Trung (nay là thôn Tràng), theo bia "Quang Ân thạch trụ thạch kiều quán bi ký " thì cầu có từ lâu, đến năm Đinh Mùi niên hiệu Bảo Thái (1727), Nhà sư Tịnh Tuyên trụ trì chùa đứng ra quyên tiền để dựng hậu đường, tháp đá; lại cho xây cầu đá và 3 gian quán bằng đá để dân đi lại thuận tiện[1].
  • Đình làng Thanh Liệt: Kể cũng hiếm làng quê Việt Nam nào có đến hai ngôi đình thờ Thành hoàng làng là danh nhân của làng như xã Thanh Liệt: Đình Ngoại nơi thờ tướng Phạm Tu, xây năm Canh Ngọ (1690) hướng đông nam, giữa cánh đồng thôn Trung, nhìn ra hồ Ngọc Thanh Đàm. Đình có quy mô kiến trúc vừa phải, gồm Đại Đình năm gian, nhà cầu nối với hậu cung hai gian tạo nên kết cấu chữ đinh. Nhiều di vật quý còn được lưu giữ: y môn, câu đối, hoành phi, tranh thờ, đôi lục bình đời Thanh, hương án, long ngai bài vị, bảy đạo sắc phong thần và một cuốn thần phả… Đã gần 1500 năm trôi qua, công lao đánh giặc giữ nước của tướng Phạm Tu mãi lưu truyền. Dân chúng làm nhiều câu thơ để ca ngợi, trong đó có câu: Tướng sử lục triều Lương địch quốc Thần bi nhất Phạm liệt danh hương Tạm dịch: Tướng triều đại năm thứ năm đánh giặc Lương Bia thần chốn làng quê sáng danh họ Phạm Những di tích liên quan đến tướng Phạm Tu còn có miếu Vực. Miếu Vực theo các cụ truyền lại là nơi thờ Phạm Tu theo sắc chỉ vua Lý từ thế kỷ thứ VI. Từ khi có đình Ngoại thì ở đây là nơi thờ vọng Phạm Tu cùng với cha mẹ ông. Miếu nhỏ nhưng rất linh ứng nên bà ngoại, bố mẹ chúa Trịnh Sâm đã bầu hậu tại đây. Ở Thanh Liệt còn có ngôi đình Lý Nhân ở thôn Trung thờ vọng tướng Phạm Tu dựng năm 1872, mở rộng thêm vào năm 1899. Đình Nội nơi thờ Chu Văn An vốn xa xưa là ngôi đền cổ, đến thời Lê Trung hưng trở thành văn từ thờ các vị khoa bảng trong làng. Nên khi xây đình các vị tiến sĩ đại khoa cũng được phối thờ. Đình được khởi dựng vào năm Ất Dậu (1765). Đến năm Giáp Tý (1864), vị tú tài Vũ Huy Hiệu cùng với dân làng chọn nơi đất thoáng hiện nay xây lại đình gồm ba gian chính và hai bên giải vũ. Mùa xuân năm Nhâm Dần (1892) đình được mở rộng. Còn được trùng tu vào năm 1921. Đến năm Nhâm Ngọ 1942 xây thêm nhà thuỷ toạ. Đình  Nội được xây trên khu đất cao, thoáng rộng ở giữa làng, hướng đông bắc nhìn ra sông Tô Lịch. Kiến trúc kiểu chữ công với ba nếp nhà cao thấp khác nhau. Trước đây di tích là một khối liên hoàn chặt chẽ gắn kết với nhau. Những năm chiến tranh chống Mỹ, con đường trước cửa đình được mở rộng để thuận tiện cho các loại vũ khí phòng không của quân đội ta cơ động chiến đấu, ngôi đình bị chia đôi với nhà Thuỷ đình. Dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, ngôi đình được trùng tu và chẳng hiểu sao nhà Thủy đình đã bị phá bỏ. Thật tiếc! Thuỷ đình là một công trình kiến trúc đẹp xây bằng gạch trên khối trụ móng hình tròn, nằm giữa hồ bán nguyệt, soi bóng xuống dòng sông Tô Lịch. Phần trên làm kiểu hai tầng tám mái, các đầu đao uốn cong, phía dưới mở nhiều cửa trông ra tám hướng. Tiền đình là ngôi nhà rộng năm gian, một kiến trúc nhỏ nối hai nếp nhà sau trước. Lớp nhà giữa nối nhà sau tiền đình với hậu cung làm đơn giản gần như hình vuông trong để kiệu, bia đá. Hậu cung là ba gian hẹp lòng, hai gian bên xây bệ thấp để tượng các vị khoa bảng trong làng, tượng tạc nhỏ gồm: con trai cả của Chu công là Chu Tam Tỉnh, trúng tuyển khoa ngự thí năm Tân Hợi; Chu Đình Bảo cháu bốn đời của Chu công đỗ tiến sĩ khoa Giáp Thìn và Lý Trần Thảo người xã Lê Xá, huyện Duy Tiên, nhập tịch ở xã, tiến sĩ khoa Ất Sửu. Tượng Chu công tạc với tỷ lệ gần như người thật, để trong khám lớn trên ví trí cao nhất ở giàn giữa hậu cung. Khác với tượng thần ở các nơi thường tạc “tai to mặt lớn”, mặc triều phục, đội mũ cánh chuồn, tượng Chu công đầu đội khăn xếp, mặc áo lương xanh của nho sinh, khuôn mặt hao gầy, u buồn, đầy tâm trạng. Có lẽ nghệ nhân tạc tượng đã nắm bắt được cái hồn của Chu công khi từ quan về ở ẩn: tiếc rằng tôi sáng chẳng gặp được vua hiền nặng lòng yêu nước thương dân mà đành bất lực. Đình Nội còn lưu giữ được nhiều di vật quý gồm: sáu tấm bia đá, trong đó bốn tấm dựng thời Lê Trung hưng, năm sắc phong thần, một cỗ kiệu, y môn, hoành phi, câu đối và thần phả.
  • Những công trình phúc lợi có rất sớm ở Thanh Liệt: Những năm đầu thế kỷ XX, khi Tổng đốc Hà Đông là Hoàng Trọng Phu (dân quen gọi là Ông Thiếu Hà Đông, ông làm Tổng đốc Hà Đông bắt đầu từ năm 1906 và ở chức vị này trên 20 năm), là người có đầu óc canh tân và muốn cho tỉnh Hà Đông phát triển, Thanh Liệt là nơi được ông áp dụng nhiều chính sách và công việc mở mang. Trong thời gian này ông cho lập trường tiểu học Thanh Liệt (nằm trên đất xóm Tràng nhìn ra sông Tô Lịch, ngoài toà nhà kiến trúc khá đẹp với các phòng học còn có khoảng đất rộng làm sân vận động), nhà Ấu trĩ (nằm trên đất xóm Bơ), xây dựng giếng máy (giếng khoan dùng bơm quay tay để bơm nước), nhà hộ sinh (nằm trên đất xóm Giữa nhìn ra sông Tô Lịch), dùng vật liệu dỡ bỏ của chợ Hàng Da mang về để xây quán chợ Quang, xây cầu Quang Bình (có trụ bằng bê tông cốt thép) nối với làng Bằng. Những công trình này có cái tồn tại và hoạt động cho đến những năm 70, 80 của thế kỷ XX mới bị xuống cấp, dỡ bỏ hoặc thay thế.
  • Con đường chạy dọc bờ sông Tô Lịch nối từ đường Nguyễn Trãi (gần Ngã Tư Sở) tới đường 70 ở Cầu Tó, hiện nay được đặt tên là đường Khương Đình và đường Kim Giang, xưa chỉ là đường đất. Đến năm 1939 con đường mới được rải đá. Người bỏ tiền ra rải đá con đường là một người giàu có ở xã Thanh Liệt, tên ông là Sáu Nhàn. Trại tạm giam Thanh Liệt hiện nay của Bộ Công an chính là dinh cơ ngày xưa của ông Sáu Nhàn. Đến năm 1968 đoạn đường qua xã Thanh Liệt mới được trải nhựa.
  • Con đường mang tên "đường Thanh Liệt": khoảng sau năm 2010 một con đường rộng với 4 làn xe, có dải phân cách ở giữa nối với đường vành đai Nghiêm Xuân Yêm chạy từ thôn Thượng xuống đến thôn Vực đã được mở. Thực chất con đường này chạy phía sau làng. Tháng 12 năm 2018 thành phố Hà Nội chính thức đặt tên con đường mới mở này là đường Thanh Liệt.Biển tên đường Thanh Liệt
  • Lễ hôi làng Thanh Liệt: Từ xưa, lệ ở Thanh Liệt mở đình từ ngày 7 tháng 2 âm lịch, ngày 8 tháng 2 đón khách, ngày 9 tháng 2 rước từ đình Nội đến đình Ngoại vào dâng lễ rồi rước về. Ngày 10 tháng 2 tế tạ ở hai đình. Trong mấy ngày hội làng có các trò diễn tuồng, chọi gà, đánh cờ bỏi… Cách phục sức của quan viên, của đô tùy và cách đánh trống chiêng đều được đặt thành thơ lục bát nhằm mục đích dễ nhớ như trong bài “Đám rước hội làng” dưới đây: Đi đầu đôi ngựa bạch cao Mười hai cờ sắc vẫy chào gió xuân Tiếp theo là trống tiền quân Lọng vàng tám tía, bước chân dập dồn Đến biển Nam quốc nho tôn Đôi tàn đi cạnh, đổ dồn tùng dinh Kế tiếp là kiệu long đình Hương trầm nghi ngút anh linh văn bài Trống trung quân bảy tiếng dài Đến năm cỗ ngọc đủ loài bánh hoa Nữ quan khiêng kiệu đức bà Hội nhạc đi trước tấu hoà bát âm Tư văn các chức tay cầm Túc Tĩnh, bát bảo có phần trang nghiêm Đến chiếu trung tịch quan viên Gươm vàng kiếm bạc bút nghiên hai hàng Bức trướng nguyên soái dát vàng Uy nghi trước kiệu thành hoàng đức ông Bát hương bài vị bên trong Bước ra đến khỏi cổng đình kiệu quay Trống hậu quân báo kiệu bay Trung tâm đám rước tránh ngay ven đường Ngài mừng ngài hoá bát hương Kiệu bay đến tận cổng trường Chu công Lại bay trở lại công đồng Nhập vào đám rước để cùng rước đi Kiệu bà đến miếu Vực thì Ghé vào dâng lễ rước đi đình ngoài Rước ngày mồng chín tháng Hai Mồng mười lễ tạ đình ngoài đình trong Hội làng tôi kể đã xong Nôm na ghi lại vài dòng xem chung. Thanh Liệt nối với mạch đất Thăng Long, quanh co theo dải sông Tô Lịch. Mảnh đất địa linh nhân kiệt đã sinh ra hai danh nhân lớn của lịch sử dân tộc Việt Nam đều đứng ở vị trí hàng đầu. Võ tướng Phạm Tu đã giúp vua Lý Nam Đế đánh quân xâm lược nhà Lương, lập nên nước Vạn Xuân, ngã xuống phòng tuyến sông Tô từ thế kỷ thứ VI. Quốc Tử Giám tư nghiệp Chu Văn An đời Trần. được đời sau tôn vinh là "Vạn thế sư biểu" (Người thầy giáo mẫu mực của muôn đời). đã góp phần đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước - một người tài cao đức lớn yêu nước thương dân. Cuộc đời và sự nghiệp của Chu Văn An là tấm gương sáng để hậu thế noi theo.

Liên quan